Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XII Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11
"Họ sẽ nhìn thấy Đấng họ đã đâm thâu qua".
Trích sách Tiên tri Dacaria.
Đây Chúa phán: "Ta sẽ gieo rắc tinh thần ân phúc và cầu nguyện trên nhà Đavít và trên dân cư Giêrusalem. Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua: họ sẽ khóc than người, như khóc than con một, họ sẽ thương tiếc người như quen thương tiếc đứa con đầu lòng đã chết.
Trong ngày đó, tại Giêrusalem sẽ có tiếng khóc than to lớn, như khóc than Ađadremmon trong cánh đồng Magêđđô". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thoả dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con.
BÀI ĐỌC II: Gl 3, 26-29
"Anh em đã chịu phép rửa tội, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Vì chưng tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 9, 18-24
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Người lại phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
19/06/2016 - CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – C
Lc 9,18-24
CÂU TRẢ LỜI ĐÚNG
“...Dân chúng nói Thầy là ai ?” - “Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ bảo là ông Ê-li-a,...” - “Còn anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.” (Lc 9,18-24)
Suy niệm: Chỉ cần một câu trả lời đúng và đắc ý người phỏng vấn là người đi xin việc được chấp thuận ngay. Khổ nỗi có quá nhiều phương án trả lời mà chỉ có một cách làm đắc ý người phỏng vấn thì biết làm thế nào đây?! Các môn đệ không ở trong hoàn cảnh này vì Chúa Giê-su đã chọn và nhận các ông vào làm việc cho mình trước khi các ông được hỏi. Hôm nay Chúa hỏi các môn đệ là để dần tỏ cho các ông khuôn mặt và sứ mệnh của Đấng-được-Chúa-Cha-xức-dầu. Sứ mệnh đó là cứu thế trong đau khổ-tủi nhục-vinh quang: hai mặt của một đồng xu!
Mời Bạn: Mãi đến khi Chúa Giê-su sống lại, các môn đệ mới hiểu nội dung của những lời Tin Mừng hôm nay. Còn chúng ta bây giờ chẳng khó khăn gì để hiểu những lời đó, nhưng vẫn còn một thách đố lớn đó là thực thi điều mình đã hiểu, đó là dám hy sinh từ bỏ chính mình để bước theo Chúa Giê-su-vác thập giá-liều mạng sống. Đó chính là câu trả lời phỏng vấn đẹp ý Chúa.
Sống Lời Chúa: Trong cuộc sống hằng ngày, bạn đã làm gì để tỏ ra mình đang sống điều mình tin vào Chúa? Có nhiều cách, bạn hãy quyết làm một trong những đề nghị này: bỏ rượu chè, dẫn con cái đi dự lễ ngày thường, nhắc bảo chúng học giáo lý ngày Chúa Nhật, thăm viếng người đau ốm trong xóm…
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ mình Chúa mới có lời ban sự sống đời. Xin cho con tin và làm theo lời Chúa dạy, nhờ đó cuộc sống của con sẽ là câu trả lời đúng ý Chúa cho những ai muốn hỏi con như Chúa đã hỏi các môn đệ ngày xưa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG SÁU
Tình Yêu Hôn Nhân Và Gia Đình Kitô hữu
Nơi người Kitôhữu, vai trò làm cha làm mẹ trước hết là một thực tại luân lý và tâm linh. Người ta chỉ cần có mấy tháng để đưa một em bé vào đời, nhưng trọn cả đời người cũng không đủ để hoàn thành việc nuôi dạy đứa con. Thật vậy, có rất nhiều giá trị – cả nhân bản lẫn siêu nhiên – mà cha mẹ phải truyền đạt cho con cái mình. Bởi vậy, hành vi trao ban sự sống của cha mẹ có một chiều kích hoàn toàn nhân bản. Và điều này đòi hỏi thời gian, lòng kiên nhẫn, trí phán đoán, sự khéo léo và tình yêu thương mấy cũng không vừa. Đó là nẻo đường mà cả gia đình được mời gọi cùng nhau bước đi từ ngày này sang ngày khác. Trong đó, mọi thành viên của gia đình – cả cha mẹ lẫn con cái – sẽ trưởng thành ngày càng hơn. Quả vậy, các bậc cha mẹ sống tư cách làm cha làm mẹ một cách đầy trách nhiệm sẽ khám phá thấy rằng trong tình yêu hôn nhân của họ có những khía cạnh rất tuyệt vời mà họ vốn không ngờ.
Những khía cạnh thâm sâu ấy của tình yêu hôn nhân cho phép chúng ta nhìn thoáng thấy chân trời rộng lớn ấy. Chúng ta nhận ra rằng tình yêu giữa người nam và người nữ siêu vượt trên kinh nghiệm về thời gian và nó tự mở ra tới viễn tượng sự phục sinh vinh quang của thân xác, ở đó sự sinh sản thể lý sẽ không còn, nhưng mối kết hợp tâm linh của hai tâm hồn sẽ vẫn tồn tại.
Trong ánh sáng này, hình ảnh của Giu-se được nhận thấy có một ý nghĩa phi thường. Vì trong cuộc hôn nhân trinh khiết giữa ngài với Đức Trinh Nữ Maria, một cách nào đó ngài báo trước kinh nghiệm trọn vẹn về thiên đàng. Ngài cho chúng ta thấy sự phong phú của tình yêu phu phụ được xây dựng trên những hòa điệu thâm sâu của linh hồn và được nuôi dưỡng bằng nguồn mạch yêu thương không bao giờ cạn kiệt.
Đây là một bài học rất có ý nghĩa cho thời đại chúng ta – một thời đại mà gia đình thường lâm vào khủng hoảng chỉ vì tựa vào một thứ tình yêu thiếu hẳn chiều sâu và sự phong phú này. Đàng khác, gia đình hôm nay in hằn những rối rắm, những nhấn mạnh thái quá đến bản năng và những sự lôi cuốn bên ngoài. Đành rằng bản năng và những lôi cuốn bên ngoài rất quan trọng, nhưng chúng không thể là nền tảng của tình yêu hôn nhân đối với các đôi vợ chồng Kitôhữu. Chúng ta hãy học lấy gương mẫu của Thánh Giu-se.
“Này con, sao con nỡ làm thế? Kìa cha con và mẹ đã lo lắng tìm con” (Lc 2,48). “Cha con” – đó là Thánh Giu-se, chồng của Mẹ Thiên Chúa, và trước mặt người đời là cha của Giê-su Na-da-rét, Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa. Câu nói trên là một lời khiển trách rất bình dị, rất ‘người’. Nhưng, trên tất cả, câu nói ấy bày tỏ mối ưu tư. Nỗi ưu tư này chính là đặc trưng của vai trò làm cha làm mẹ, từ khoảnh khắc thụ thai đứa con trong cung lòng người mẹ, xuyên qua tuổi ấu thơ và cả cho đến tuổi trưởng thành. Mối ưu tư ấy của cha và mẹ há không phải là phản ảnh của sự quan phòng thần linh đó sao?
Và rồi, một câu nói khác nữa, lần này là của Đức Giê-su: “Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Câu nói của Giê-su, người con, nói với cha mẹ mình – là Giu-se và Maria. Câu nói ấy vén mở cho thấy rằng ở giữa mối ưu tư nói trên của cha và mẹ, vẫn có những khả năng cho đứa con lớn lên, vẫn luôn có khả năng cho tiếng gọiđến từ Thiên Chúa: “Con phải ở trong nhà Cha con…”
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19 – 6
Chúa Nhật XII Thường niên
Dcr 12,10-11;13,1; Gl 3,26-29; Lc 9,18-24.
Lời suy niệm: “Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện. Các môn đệ cùng ở đó với Người, và Người hỏi với các ông rằng: Dân chúng nói Thầy là ai?”
Sau một thời gian dài Chúa Giêsu đã rao giảng, đã chữa lành với bao phép lạ giữa dân chúng từ nơi này đến nơi khác. Giờ đây Người long trọng hỏi các môn đệ của Người về dân chúng nói Người là ai. Các môn đệ đã trả lời những gì các ông đã nghe, nhưng Chúa Giêsu chưa thỏa mãn; Người lại đặt câu hỏi này đối với các môn đệ, là những người đã theo sát Người, cùng ở với Người, đã được Người dạy cách riêng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phần đông cũng đã giữ thái độ im lặng, chỉ có một mình Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cũng đang hỏi chúng con về Chúa. Xin cho chúng con phải học biết về Chúa để trả lời với lòng tin của mình, đừng để chúng con phải im lặng hầu che giấu vì sự thiếu hiểu biết của mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
19 Tháng Sáu
Thế Ư?
Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...
Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nang niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bông hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?".
Hai tiếng " Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.
Thái độ điềm nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa đang thực hiện.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 12 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Zech 12:10-11; Gal 3:26-29; Lk 9:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra Đức Kitô và làm những gì Ngài yêu cầu.
Để trở thành môn đệ thực thụ của Đức Kitô, một người phải làm 3 việc: Thứ nhất, người đó phải nhận ra Ngài là ai, địa vị quan trọng của Ngài trong cuộc đời, và những gì Ngài truyền dạy. Thứ hai, người đó phải mong muốn theo Ngài và làm những gì Ngài truyền dạy. Sau cùng, người đó phải thực thi tất cả những điều đó. Đây là một tiến trình khó khăn và không thể thi hành với sức lực con người; nhưng Thiên Chúa không những đã ban đầy đủ ơn thánh qua công nghiệp của Đức Kitô lại còn ban Thần Khí vào tâm hồn con người để giúp con người nhận ra, ao ước, và làm theo sự thật.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra tiến trình nhận ra – ao ước – và thi hành sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah phác họa Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho con người: Ngài sẽ ban Thần Khí của ơn thánh và cầu nguyện xuống trên dòng dõi David và dân cư Jerusalem để giúp họ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa và tha thiết cầu nguyện, đồng thời sẽ giúp họ biết nhận ra và than khóc Đấng họ sẽ đâm thâu là Đức Kitô để ăn năn trở lại và nhận được ơn cứu độ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giúp các tín hữu nhận ra: khi họ chịu Phép Rửa là họ đã “mặc lấy” Đức Kitô. Vì thế, họ không được phép kỳ thị chủng tộc hay phân chia giai cấp, vì tất cả đều là những chi thể của một thân thể là Đức Kitô. Trong Phúc Âm, tuy Phêrô nhận ra và tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô;” nhưng ông chưa mong muốn một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đức Kitô khuyến khích các ông phải can đảm đi theo con đường này mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu, chúng sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một.
1.1/ Khác biệt về văn bản:
- MT và nhiều bản cổ dịch, “Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu.” Túc từ “Ta” ở ngôi thứ nhất, ám chỉ Người nói là Đức Chúa. Khi Gioan trích dẫn câu này, thánh sử viết “Chúng sẽ nhìn lên Đấng mà chúng đã đâm thâu” (Jn 19:37). Túc từ “Đấng” ở ngôi thứ ba, người nói không phải là Đức Chúa.
- LXX đọc sai động từ dqr (đâm thâu) thành rqr (chửi rủa). Chữ d và chữ r viết rất giống nhau trong tiếng Do-thái, và dễ bị lẫn lộn với nhau. Vì thế, họ phiên dịch khác hoàn toàn: “Chúng sẽ nhìn lên Ta mà chúng đã chửi rủa.” Mặc dù đọc sai động từ, LXX đọc giống MT ở chỗ “Ta,” ở ngôi thứ nhất.
+ Hadadrimmon có thể là thần bão Hadad hay thần chính thức Rimmon của Damascus (2 Kgs 5:18), mà cái chết của ông được dân chúng than khóc mỗi năm khi thời tiết đổi qua mùa khô.
+ Vị trí của Megiddo nằm trên trục lộ giao thông chính của hai miền Nam Bắc Palestine, nên thường là nơi của những trận chiến lớn tôn giáo hay chính trị trong lịch sử. Vua Josiah là một vị vua tốt lành của Do-thái đã tử trận tại đây và dân chúng than khóc sự ra đi của nhà vua.
1.2/ Ý nghĩa thần học của trình thuật:
(1) Thần khí ơn thánh và cầu nguyện: Khi Thiên Chúa muốn đập tan quân thù để cứu dân chúng, trước tiên Ngài đổ thần khí ơn thánh và cầu nguyện xuống trên họ. Thần khí ơn thánh ám chỉ thái độ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa (x/c Gen 6:8, 33:8, 34:11) để nhận được ơn lành. Thần khí cầu nguyện để dân chúng biết nhận ra điều phải và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa (2 Sam 12:22; Isa 27:11). Cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong cuộc sống con người; nhưng để biết cách cầu nguyện, con người cần được Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn.
Việc giải thoát hay ban ơn là việc của Thiên Chúa; nhưng con người cần nhận ra sự cần thiết của việc giải thoát hay ban ơn và mong muốn bằng việc kêu xin Ngài ban ơn hay giải thoát. Thiên Chúa gởi Thần Khí xuống trên con người để họ nhận ra sự thật, những gì đáng ước mong, và khơi dậy lòng ăn năn xám hối vì tội lỗi đã lìa xa Thiên Chúa (Eze 36:37). Việc Thiên Chúa hứa sẽ tuôn đổ Thần Khí xuống trên con người đã được loan báo trong (Isa 44:3). Điều này được thực hiện khi Đức Kitô được vinh quang trên Thập Giá (Jn 7:39). Đó là lời hứa ban Thánh Thần và tất cả ơn lành thiêng liêng từ trời gồm chứa trong Đức Kitô.
(2) Trên nhà David và dân cư của Jerusalem: Một cách tổng quát, những nhà lãnh đạo của Thiên Chúa sẽ nhận được Thánh Thần trước như các tông đồ trong ngày Lễ Năm Mươi, sau đó sẽ lan ra cho toàn dân. Một cách đặc thù, “nhà của David” hay “con vua Dadid” ám chỉ Đức Kitô, Thánh Thần Thiên Chúa ngự trên Đức Kitô là đầu của thân thể, và từ Ngài, Thánh Thần lan xuống cho tất cả chi thể. Dân cư ở Jerusalem không phải chỉ những người sống tại Jerusalem; nhưng còn tất cả mọi người thuộc Giáo Hội.
(3) Họ sẽ nhìn lên Ta Đấng họ đã đâm thâu và sẽ than khóc: Tại sao không vui mừng mà phải than khóc? Than khóc vì con người nhận ra Đức Kitô phải chết là tội của con người. Than khóc vì những kẻ đã đóng đinh Đức Kitô nhận ra họ đã đóng đinh Người Con Một của Thiên Chúa. Con người vẫn và sẽ tiếp tục than khóc vì họ không ngừng phạm tội phản bội tình thương của Thiên Chúa. Đức Kitô nói “Phúc cho kẻ than khóc, vì họ sẽ được yêu ủi” là thế. Nếu họ nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh mà không nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của họ, làm sao họ có thể được cứu thoát?
Họ sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một. Họ sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng: Còn nỗi đau đớn nào hơn nỗi đau đớn của cha mẹ mất đứa con một, người con duy nhất họ có. Câu này gợi lại cho chúng ta sự than khóc của người Ai-cập khi các thiên thần tiêu diệt những đứa con đầu lòng của họ. Hay nỗi đau đớn của các bà mẹ mất con khi vua Herode tiêu diệt tất cả các con trẻ tại Bethlehem và các vùng phụ cận từ 3 tuổi trở xuống. Ngôn sứ Zechariah có ý muốn nói con người phải than khóc cho tội mình như thế, vì tội lỗi của họ mà Đức Kitô, Người Con Một của Thiên Chúa, đã phải đóng đinh vào Thập Giá và bị quân lính lấy lưỡi đòng đâm thâu.
2/ Bài đọc II: Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.
(1) Đức Kitô đã kiên kết chúng ta nên một: Thánh Phaolô nói với các tín hữu Galat: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô.” Đức tin vào Đức Kitô đòi hỏi phải có trước khi một người lãnh nhận Phép Rửa. Khi lãnh nhận Phép Rửa, người tín hữu trở thành con cái của Thiên Chúa. Khi thánh Phaolô nói “người tín hữu mặc lấy Đức Kitô” là có ý muốn nói họ trở nên một phần thân thể hay chi thể của Ngài.
(2) Chúng ta không được chia cắt thân thể Chúa: Nếu các tín hữu đã trở nên những chi thể của Đức Kitô, bổn phận của tất cả là xây dựng Nhiệm Thể này sao cho mỗi ngày đạt tới mức thập toàn. Họ không được phép chia cắt thân thể của Ngài bằng việc “phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.”
2.2/ Anh em là những người thừa kế theo lời hứa: “Nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa.”
Một số người Do-thái cho nếu Dân Ngoại muốn trở thành con cháu Abraham, họ phải chịu cắt bì.” Thánh Phaolô trong Thư hôm nay và Thư Rôma đả phá quan niệm này. Ngài lý luận: Abraham được Thiên Chúa hứa ban cho một dòng dõi là vì đức tin của tổ phụ vào Thiên Chúa, chứ không do bởi việc cắt bì. Cũng vậy, khi một người tin vào Đức Kitô, họ trở thành con Thiên Chúa và thuộc dòng dõi Abraham. Họ được thừa kế những gì Thiên Chúa hứa nhờ lòng tin, nên không cần phải cắt bì.
3/ Phúc Âm: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
3.1/ Căn tính của Đức Kitô: Sắp đến giờ Đức Kitô phải lên Jerusalem để bắt đầu Cuộc Thương Khó và từ giã các môn đệ, Ngài muốn biết sau một thời gian sống với, mặc khải và giáo dục, các môn đệ đã nhận ra Ngài là ai chưa. Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ:
(1) "Dân chúng nói Thầy là ai?" Câu hỏi này chỉ để giúp các môn đệ suy nghĩ trước khi Chúa hỏi các ông câu thứ hai. Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." Tất cả những danh xưng này không đủ để diễn tả căn tính của Đức Kitô, chúng chỉ nói lên phần nào đặc tính của Chúa Giêsu qua cái nhìn nhân loại: can đảm nói và bênh vực sự thật như Gioan Tẩy Giả, có khả năng làm nhiều phép lạ như ngôn sứ Elijah, hay có những lời dạy dỗ khôn ngoan của một ngôn sứ. Chúa Giêsu hỏi tiếp:
(2) Các con bảo Thầy là ai? Đây là câu hỏi không dễ trả lời vì câu trả lời không những phải nói lên căn tính của Chúa mà còn phải nói lên niềm xác tín của các tông đồ vào Ngài. Phêrô, tuy là một người mau mắn, nhưng nói năng không trôi chảy, đã mạnh dạn tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Trong trình thuật của Matthew, Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Này anh Simon con ông Jonah, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17a). Điều này cho thấy để biết căn tính của Đức Kitô vượt quá trí khôn con người; để hiểu, họ cần được sự mặc khải của Thiên Chúa qua Thánh Thần của Ngài.
3.2/ Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ: Tuy tuyên xưng đúng căn tính của Đức Kitô, Phêrô vẫn chưa hiểu đúng Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; vì khi Chúa Giêsu nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy." Phêrô đã kéo Chúa ra một nơi và can ngăn Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16:22-23).
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai giữ sẽ mất, ai liều sẽ giữ lại được.” Để trở thành môn đệ của Đức Kitô, một người phải bỏ tất cả những ý riêng không hợp với ý của Thiên Chúa và làm theo thánh ý của Ngài. Ngoài ra, người đó còn phải chấp nhận con đường đau khổ, nghĩa là phải bắt chước Đức Kitô vác Thập Giá hằng ngày để mưu cầu ơn cứu độ cho mình và cho tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa soi sáng để nhận ra Đức Kitô và những chân lý Ngài truyền dạy. Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa thúc đẩy để mong ước những điều tốt lành từ Thiên Chúa và chê ghét tội lỗi của mình. Sau cùng, chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh giúp chúng ta đủ sức thi hành điều chúng ta mong muốn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét