Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XI Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 12, 7-10. 13
"Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi và vua sẽ không phải chết".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Nathan thưa cùng Đavít rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Đavít liền nói với Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Đavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11
Đáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Đáp.
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Đáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Đáp.
3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Đáp.
4) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gl 2, 16. 19-21
"Không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em biết rằng con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Đức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Đức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa. Nhưng nếu có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Đức Kitô đã chết cách luống công. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 7, 36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
- "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
12/06/2016 - CHÚA NHẬT TUẦN 11 TN – C
Lc 7,36-8,3
XIN CHO CON YÊU CHÚA NHIỀU
“Dầu ô-liu ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị này thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay, tội chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7,46-47)
Suy niệm: Vừa qua, một nhiếp ảnh gia Mỹ đã gây sửng sốt khi công bố bộ ảnh chụp cảnh dùng máy cưa nát chiếc túi Birkin trị giá trên 100.000 đô la. Giải thích lý do tiêu hủy đồ vật đắt tiền đó, người bạn thân của nhà nhiếp ảnh cho biết: họ muốn chống lại thói lệ thuộc của con người vào những giá trị vật chất. Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay có một hành động tương tự, đổ cả chai dầu thơm hảo hạng để xức chân Chúa. Chị không chỉ bày tỏ quyết định chấm dứt lệ thuộc vật chất, những thứ mà suốt những năm dài qua chị đã bán mình để kiếm lấy và dùng nó để bôi thơm cho con người tội lỗi của chị, mà còn bày tỏ sự dứt khoát đối với tội lỗi. Chính Chúa là động lực để chị đi đến quyết định gây sửng sốt đó. Sự thay đổi như thế xuất phát từ lòng yêu mến Chúa.
Mời Bạn: Có những thứ vật chất nào đang lôi kéo bạn xa Chúa? Những quyến luyến bất chính nào đang ràng buộc bạn? Bạn có dám rời khỏi những dan díu ấy để bày tỏ đức tin và lòng yêu mến của bạn vào Chúa Giê-su không?
Chia sẻ với nhau một kinh nghiệm bày tỏ lòng yêu mến Chúa có ấn tượng với bạn nhất.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm từ bỏ một tật xấu để bày tỏ lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã không chê ghét người phụ nữ tội lỗi, xin cũng đừng bỏ rơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết sẵn sàng bày tỏ lòng yêu mến Chúa trong những hành động của chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG SÁU
Chúng Ta Quyết Định Vận Mệnh Của Chính Mình
Công Đồng Vatican II diễn tả cùng sự thật ấy về con người bằng những ngôn từ vừa bất hủ vừa rất chính xác đối với thời đại hôm nay: “Con người chỉ có thể quay về với sự thiện một cách tự do … Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo sự lựa chọn ý thức và tự do” (MV 17). “Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ; và cũng chính nơi đó con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).
Sự tự do đích thực của con người là sự tự do đặt nền tảng trên sự thật. Từ nguyên thủy, sự tự do này đã mạc khải hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Vâng, sự thật giải phóng con người để con người trở nên chính mình một cách viên mãn trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12 – 6
Chúa Nhật XI Thường niên
2Sm 12,7-10.13; Gl 2,16.19-21; Lc 7,36-50
Lời suy niệm: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi binh an.”
Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành tìm gặp Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà của một người Pharisêu do ông này mời, cho chúng ta thấy được cái nhìn của của ông chủ nhà và cái nhìn của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi; cùng sự thể hiện lòng mến của ông chủ nhà và lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đối với Chúa Giêsu; để giúp mỗi người trong chúng ta xét mình lại, nhìn lại mình về những ơn ban mà mình đã nhận được từ lòng thương xót của Chúa, để có cái nhìn cảm thông với người anh em, giúp nhau nhận ra lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đều là tội nhân, đều được Chúa xót thương và tha thứ. Xin cho mỗi người trong chúng con biết thể hiện tình yêu kính Chúa với sự thành tâm của mình, để nhận được Lời chúc của Chúa, như Chúa đã chúc cho người phụ nữ tội lỗi: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
12 Tháng Sáu
Ngọn Lửa Không Hề Tắt
Tong tác phẩm Ðại Học Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn ghi lại thân phận tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đọa đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài, cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay của ông có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình ảnh con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt chống lại định mệnh để tự thắng và tự cứu mình... Hai chị em Lan và Trực bị đắm tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng, người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại đảo... Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo... Sóng to gió lớn có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện như sau: "Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể nhìn thấy một ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ, khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt".
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh vô song của ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi. Ðó phải là ý lực sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu, mà chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 11 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: 2 Sam 12:7-10, 13; Gal 2:16-19, 21; Lk 7:36-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhu cầu cần xét mình để nhận ra tội và đừng kết án tha nhân.
Trong cuộc đời, con người thường nghĩ các quyết định của mình là đúng, cho tới giây phút nào đó, Thiên Chúa gởi người đến soi sáng và vạch ra những sai lầm của mình. Trong những giây phút được soi sáng như thế, con người phải khiêm nhường nhìn nhận khuyết điểm thì mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Nếu không, giây phút hồng ân đó qua đi và con người sẽ ôm hận suốt đời.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật những trường hợp được Thiên Chúa soi sáng. Trong bài đọc I, tiên tri Nathan sửa lỗi vua David rất khéo, bằng cách kể cho nhà vua nghe một câu truyện bất công. Thoạt nghe, vua David nổi xung buộc tội anh nhà giàu giết chiên hàng xóm; nhưng Nathan tuyên án vua David: anh nhà giàu đó chính là nhà vua! Lúc đó vua David mới nhận ra lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong bài đọc II, trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus, Phaolô vẫn nghĩ con người có thể được cứu độ bằng việc giữ trọn vẹn Lề Luật; nhưng sau biến cố được soi sáng đó, Phaolô phải khiêm nhường nhìn nhận: không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Vì thế, mọi người phải tin vào Đức Kitô mới được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện và đòi người kinh sư phải trả lời; sau đó Chúa mới vạch trần sự khinh thường đón khách và sự kết án người khác của anh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC
1/ Bài đọc I: Tiên tri Nathan giúp cho vua David xét mình.
Để hiểu rõ trình thuật hôm nay, độc giả cần đọc lại những chương trước; nhất là câu truyện tiên tri Nathan kể về hai người hàng xóm trước đoạn này (2 Sam 12:1-6).
1.1/ Nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đã làm cho nhà vua:
Sau khi Nathan kể chuyện, vua David bừng bừng nổi giận kết tội anh nhà giàu và ra hình phạt cho anh. Nhưng Nathan nói với vua David: "Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saul. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Israel và Judah. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa.”
1.2/ Nhận ra tội lỗi nhà vua đã xúc phạm đến Thiên Chúa:
Vua David biết Nathan ám chỉ mình chính là người giàu có trong chuyện, và những gì xảy ra trong quá khứ David tưởng không ai biết giờ được Nathan thuật lại từng chi tiết.
(1) Tội giết người không vũ khí của David: Nathan tiếp tục: “Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm Uriah, người Hittite; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammonites mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah, người Hittite, làm vợ ngươi.” David không trực tiếp dùng gươm đâm, nhưng âm mưu gởi Uriah ra chỗ mặt trận gay cấn nhất mà không cho quân cứu viện để Uriah phải tử trận vào tay quân thù. Mục đích là để David lấy được bà Batsheba, vợ của Uriah.
(2) Vua David ăn năn thống hối: Bấy giờ vua David nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông Nathan nói với vua David: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.” Kể từ đó, bao nhiêu điều khốn khổ đã xảy ra trong nhà David; nhưng nhà vua không dám than phiền Thiên Chúa vì đã biết tội mình.
2/ Bài đọc II: Không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.
2.1/ Xét mình theo tương quan với Lề Luật:
Trình thuật của Thư Galat hôm nay là trọng tâm đạo lý của Thư. Để hiểu tại sao Phaolô có thể kết luận: “con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Giêsu Kitô, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.” Chúng ta phải trở lại biến cố đã xảy ra cho Phaolô trên đường đi Damascus. Lúc đó, Phaolô còn là một “kinh sư thủ cựu” đang trên đường đi bắt bớ các tín hữu theo Đức Kitô tại Damascus; vì Phaolô nghĩ họ là những người chống lại Lề Luật tốt lành của cha ông để lại. Nhưng một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống làm ông ngã ngựa và bị mù. Sau đó, Đức Kitô Phục Sinh thân hành hiện đến với Phaolô và chứng minh cho ông Ngài vẫn sống.
Sau đó, Ngài mở mắt cả phần xác lẫn phần hồn cho Phaolô để ông hiểu: Lề Luật tốt lành, nhưng không một ai có thể giữ tất cả Lề Luật. Theo Lời Chúa phán với Moses, chỉ cần vi phạm một Luật thôi, con người cũng phải mang án tử. Vì vậy, không ai trở nên công chính nhờ việc giữ Luật, vì mọi người đều phạm tội. Hậu quả của tội là mọi người đều phải chết.
2.2/ Tại sao Đức Kitô phải đến?
Vì không ai có thể nên công chính và được cứu độ, nên Đức Kitô phải đến và lãnh hình phạt thay cho con người. Khi con người được xóa tội, con người được nên công chính với Thiên Chúa. Khi đã nên công chính, con người không phải chết nữa.
Vì thế, Phaolô xác tín: “Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích.”
3/ Phúc Âm: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Tại sao ông Pharisee Simon mời Chúa dùng bữa ăn? Chắc hẳn là không như một khách quí, vì ông đã không chu toàn nhiệm vụ hiếu khách. Chắc hẳn cũng không tìm cách hại Chúa như các kinh sư khác vì ông gọi Chúa bằng danh xưng Rabbi (Thầy). Nhưng có lẽ ông là người ở giữa muốn được phổ thông và cũng muốn được nghe Chúa dạy.
Người phụ nữ phải là khán giả của Chúa. Chị đã được nghe và cải hóa bởi những lời giảng dạy nên bày tỏ lòng ăn năn và tình yêu với Chúa. Sự kiện chị ấy xõa tóc trước công chúng bị coi là hành động không thể chấp nhận của một phụ nữ đứng đắn; nhưng chị không quan tâm vì chị sống thực lòng mình. Chị biết chị là người tội lỗi và nghĩ mọi người chung quanh biết điều đó, nên chẳng cần phải che đậy gì nữa.
Phong tục của người Do-thái: Khi khách đến thăm, chủ nhà sẽ đặt một tay trên vai khách và hôn khách, sau đó sẽ lấy nước rửa chân cho khách, sau cùng sẽ nhỏ trên đầu khách vài giọt dầu thơm. Ông kinh sư này đã không làm bất cứ thủ tục nào theo truyền thống cho Chúa Giêsu cả.
Không những thế, ông còn xét đoán cả Chúa và người phụ nữ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!"
3.1/ Chúa Giêsu mời ông Pharisee xét mình.
Giống như trình thuật Nathan-David trong bài đọc I, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện cho ông kinh sư. Thoạt nghe, ông kinh sư thấy chẳng có gì liên quan đến mình cả.
(1) Qua ví dụ hai con nợ: Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2) Qua trường hợp cụ thể: Quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
3.2/ Chúa Giêsu tha tội cho người phụ nữ.
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Niềm tin của người phụ nữ biểu lộ qua tình thương chị dành cho Chúa Giêsu. Chúa không khen tội của người phụ nữ; nhưng Chúa tuyên dương hành động thống hối của chị. Chị biết mình có tội, và tội rất nhiều; nhưng chị tin vào lòng thương xót của Chúa Giêsu sẽ tha mọi tội cho chị. Vì chị có tội nhiều, nên chị biết ơn nhiều khi được tha nhiều. Và chị tìm thấy sự bình an.
Còn ông Pharisee, chúng ta không thấy trình thuật nói về phản ứng của ông, một lời xin lỗi Chúa cũng không thấy đề cập đến. Thực ra, mọi người đều có tội. Khi một người không cảm thấy có tội là do bởi xét mình chưa kỹ thôi. Điều nguy hiểm cho những người tự cho mình là công chính là họ không cần đến Chúa và tình thương tha thứ của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra tội lỗi và khẩn cầu ơn tha thứ của Chúa. Người không năng xét mình sẽ không nhận ra các tội để chừa.
- Sau khi đã hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta phải rộng lòng tha nhứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta.
- Chúng ta cần phải tránh xa việc xét đoán tha nhân. Hãy để việc đó cho Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần biết một điều: đã là người ai cũng có những giây phút yếu lòng cả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét