Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016

PHÚC ÂM: Mt 9, 1-8

Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Năm Tuần XIII Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Am 7, 10-17
"Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, một vị tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa rằng: "Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không chịu nghe các lời của y". Vì đây, Amos nói rằng: "Giêrôbôam sẽ chết vì gươm, và dân Israel sẽ bị đày xa xứ sở".
Và Amasia đã nói với Amos: "Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri. Đừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền thờ của vương quốc". Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta". Và này, hãy nghe lời Chúa phán: "Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel, chớ chỉ trích dòng họ kẻ theo dị thần". Chính vì thế mà Chúa phán như sau: "Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết trên đất nhơ nhớp, và dân Israel sẽ bị đày ải xa quê hương mình". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Đáp:  Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Đáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Đáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Đáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 9, 1-8
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng 'Tội con được tha rồi', hay nói 'Hãy chỗi dậy mà đi', đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
30/06/2016 - THỨ NĂM TUẦN 13 TN
Các thánh tử đạo tiên khởi giáo đoàn Rô-ma
Mt 16,13-19
CÒN CON, CON BẢO THẦY LÀ AI?
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Suy niệm: Vốn không ưa thích gì Ki-tô giáo, nhưng triết gia Pháp E. Renan cũng phải thốt lên: “Đức Giê-su là thiên tài tôn giáo vĩ đại nhất của lịch sử.” Người Do Thái thời Đức Giê-su cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Ê-li-a, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Ki-tô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giê-su cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phê-rô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Ngày hôm nay, bạn có tuyên xưng Ngài là Cứu Chúa đời bạn như Phê-rô không?
Mời Bạn: “Vấn đề cấp bách nhất về niềm tin là liệu một người văn minh có thể tin Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa hay không, vì toàn bộ niềm tin của ta dựa trên điều ấy” (nhà văn Nga F. Dostoievski). Ngày hôm nay, Đức Giê-su cũng hỏi bạn: “Còn con, con bảo Ta là ai?” Bạn sẽ trả lời Ngài thế nào? Đây là câu trả lời mang tính sinh tử với bạn, vì sẽ quyết định vận mạng đời bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là Anh Cả, là bậc Thầy có lời ban sự sống đời đời, là người bạn thân thiết nhất, và sẽ nỗ lực sống điều mình tuyên xưng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, tựa như thánh Phê-rô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30 THÁNG SÁU
Để Sống Trọn Vẹn, Chúng Ta Phải Ký Thác Chính Mình Cho Thiên Chúa
Đức tin vào sự quan phòng thần linh vẫn luôn gắn kết chặt chẽ với chính ý nghĩa của đời sống con người. Người ta có thể đối diện với cuộc sống khi họ nắm chắc rằng mình không phó mặc cho định mệnh mù quáng. Thay vào đó, người ta có thể cậy dựa vào Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và là Cha của mọi người. Như vậy, đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi sự sai lầm của thuyết định mệnh. Đức tin này được tóm tắt trong phần mở đầu Kinh Tin Kính: “Tôi tin vào Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng.”
Đức tin ấy được nhấn mạnh trong giáo huấn của Giáo Hội, nhất là nơi Công Đồng Vatican I và II. Chẳng hạn, Công Đồng Vatican II dạy rằng Thiên Chúa là Đấng “có lòng quan tâm từ phụ đối với mọi loài” (MV 24), cách riêng “đối với loài người” (MK 3). Một biểu hiện của mối quan tâm từ phụ này chính là “luật vĩnh cửu, khách quan và phổ cập của Thiên Chúa – qua luật này, Ngài xếp đặt, hướng dẫn và điều khiển cả hoàn vũ cũng như các hướng đi của cộng đoàn nhân loại trong ý định đầy khôn ngoan và yêu thương của Ngài” (TDTG 3).
“Con người hiện hữu chỉ là do Thiên Chúa đã vì yêu thương nên tạo dựng con người, và cũng vì yêu thương mà luôn luôn bảo tồn con người; hơn nữa, con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác cho Đấng tạo dựng mình” (MV 19).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 30 - 6
Các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma
Am 7,10-17; Mt 9,1-8.
Lời suy niệm: Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiên đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa người bại liệt cho chúng ta thấy được tình thương  những người lân cận của người bại liệt, họ đã không ngại khó nhọc và dư luận của những người chứng kiến; sẵn sàng hy sinh để phục vụ người thân cận, và tất cả đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót đầy quyền năng chữa lành vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chung quanh chúng con không thiếu những con người đang cần chúng con giúp đỡ. Xin cho chúng con học được những đức tính của những người đã khiêng người bại liệt đến với Chúa và đã được Chúa chữa lành.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 30-06: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI
CỦA HỘI THÁNH RÔMA
Các Thánh tử đạo tiên khởi của Hội Thánh Rôma là nạn nhân của Bạo chúa Nêrô. Lệnh bách hại được ban hành tiếp ngay sau vụ cháy ngày 18 tháng 7 năn 64. Không hiểu đâu là nguyên nhân của tai hoạ khủng khiếp, lan rộng tới biên thùy Dalatin và Celius, tàn phá thành đô suốt trong 6 ngày 7 đêm.
Nhưng Nêrô đã qui trách nhiệm cho các Kitô hữu, phần lớn là nô lệ, những nô lệ đã được giải phóng và những kiều bào ngoại quốc. Cuộc đàn áp thật bất công và tàn bạo. Các nạn nhân bị bắt làm mồi cho thú dữ sâu xé hay bị thiêu đốt như những ngọn đuốc sống. Thảm cảnh gây bất mãn đối với cả các lương dân như Tacite chẳng hạn.
Giáo hội đã muốn dành ngày hôm nay, ngay sau lễ trọng kính hai thánh Tông đồ của Phêrô và Phaolô để kính nhớ con số đông đảo các vị thánh tử đạo tiên khởi của Hội Thánh Roma như những bông hoa đầu mùa mà dâng lên Chúa.
Các Ngài cũng là những nền tảng xây dựng cho Giáo hội bằng gương trung kiên với đức tin, bằng chính dòng máu làm cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
30 Tháng Sáu
Chiếc Cầu Của Gặp Gỡ
Vào khoảng năm 1850, họa sĩ tài ba của Hoa Kỳ là James McNeil Whisler đang còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisler cũng đăng ký vào trường đại học quân sự West Point.
Người ta kể lại rằng khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự. Thế nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisler đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự. Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mỏm núi thơ mộng. Dọc theo hai bên bờ sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng câu cá trên chiếc cầu ấy.
Ông giáo sư cầu cóng không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận giữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ: "Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".
Nhưng con người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh thiên nhiên mà thiếu bóng dáng của con người. Không được sáng tác theo ý mình muốn, Whisler bèn vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.
Chiếc cầu được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ sông là để cho con người ở hai bên bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.
Chúa Giêsu là chiếc cầu nối liền Trời cao và Ðất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau. Chỉ trên chiếc cầu của Ðức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.
Ngài sinh ra trong một gia đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để quy tụ tất cả nhân loại thành một gia đình. Con đường cứu rỗi của Ngài là con đường mở rộng cho mọi người cùng nắm tay đi với nhau. Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con người là chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông, của yêu thương. Chúng ta chỉ có thể đi về cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 13 TN2
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải cẩn thận suy xét Lời Chúa

Lời của Thiên Chúa phán ra sẽ không trở lại với Ngài mà không có hiệu lực (Isa ). Khi con người có cơ hội nghe Lời Chúa, hoặc chính Thiên Chúa phán ra hoặc qua miệng các ngôn sứ, con người cần có thái độ tôn kính học hỏi và khiêm nhường lắng nghe. Sau đó, con người cần suy xét và thi hành những gì Ngài nói thì mới có thể sinh ích cho mình và tránh được những thiệt hại xảy đến trong tương lai.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng hai ví dụ xảy ra cho những người không cẩn thận lắng nghe và khinh thường Lời Chúa. Trong bài đọc I, tư tế Amaziah khinh thường ơn gọi ngôn sứ của Amos, qua việc sai sứ giả tâu lên vua và đuổi Amos về quê quán của mình. Hậu quả là tư tế đã phải lãnh nhận những lời tuyên sấm thiệt hại liên quan đến bản thân, gia đình và đất nước. Trong Phúc Âm, một số các kinh sư kết tội Chúa Giêsu phạm thượng vì dám tha tội, quyền chỉ dành cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội để cắt nghĩa cho họ, nếu Ngài có thể chữa lành bệnh, Ngài cũng có thể lấy đi tội là nguyên nhân của bệnh. Nói tóm, họ phải chấp nhận Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài làm được những việc chỉ Thiên Chúa mới làm được.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta."
1.1/ "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."
Trình thuật kể thái độ của Amaziah đối với ngôn sứ Amos như sau: “Bấy giờ ông Amaziah, tư tế đền thờ Bethel, sai người đến gặp Jeroboam, vua Israel, và thưa: "Amos âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Israel, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì Amos nói như thế này: "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."
Khi nghe những lời tuyên sấm của ngôn sứ, con người có hai thái độ, hoặc đón nhận và khiêm nhường xét mình để sửa đổi, hoặc tức giận chửi rủa và tìm cách triệt hạ vị ngôn sứ. Tư tế Amaziah chọn thái độ thứ hai.
Amos sinh tại Tekoa, một thành của Judah; nhưng Đức Chúa lại truyền cho ông đi nói tiên tri tại vương quốc Israel. Đó là lý do Amaziah nói với ông Amos: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều."
Ông Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta." Amos muốn nói cho Amziah biết: Ơn gọi làm ngôn sứ đến từ Thiên Chúa; nếu Ngài không gọi ông, ông đã không qua Judah để tuyên sấm cho Đức Chúa.
1.2/ Truy tố ngôn sứ không làm vô hiệu hóa sấm ngôn của Đức Chúa.
Người nghe sứ điệp của ngôn sứ phải hiểu ông chỉ là người mang sứ điệp hay chỉ là cái loa của Thiên Chúa, Đấng ban hành sứ điệp. Nếu họ không muốn hậu quả xảy ra, họ có thể chọn một trong hai giải pháp: hoặc họ phải tiêu diệt Người ban hành sứ điệp, điều mà không ai có thể làm nổi, hoặc họ lắng nghe sứ điệp và kiểm điểm con người để sửa đổi. Nóng giận và tiêu diệt ngôn sứ chỉ tăng thêm tội cho họ và làm cho cơn giận của Thiên Chúa càng mau tới.
Amos tuyên sấm cho tư tế Amaziah, không phải nhân danh sự hận thù cá nhân, nhưng là nhân danh Thiên Chúa: “Vì vậy, Đức Chúa phán thế này: "Vợ ngươi sẽ đi làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế.” Và ông lặp lại lời tuyên sấm trước: “Israel sẽ bị đày xa quê cha đất tổ."
2/ Phúc Âm: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm thượng!" vì truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Truyền thống Do-thái tin bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa Giêsu muốn chứng minh cho họ biết: Nếu Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu muốn dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông này nói phạm thượng!" là sai.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính và khiêm nhường mỗi khi đọc hay lắng nghe Lời Chúa, vì những lời này sẽ trở thành những bằng chứng để kết tội chúng ta.
- Chúng ta đừng bao giờ có thái độ khinh thường, phê bình, và gây thiệt hại cho các ngôn sứ vì những lời họ rao giảng. Nếu chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ gây htêm tội cho mình mà vẫn không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa. Điều tốt hơn là hãy cẩn thận suy xét coi những lời đó ảnh hưởng tới chúng ta làm sao và mau mắn thi hành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

LỄ THÁNH PHÊRÔ.PHAOLÔ

                
Hội Thánh Kính nhớ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô… Lúc 5g sáng thứ tư ngày 29/06/2016. Thánh lễ Mừng Kính hai Ngài tại thánh đường Giáo Xứ Tin Mừng. Diễn ra long trọng và nghiêm trang được đông bà con giáo dân các anh em lao động biển, cùng các em thiếu nhi tham dự, trải qua bao nhiêu thế hệ, từ triều đại này đến thời đại khác, nhưng rồi đã qua đi… hai Vị Thánh Tông đồ,cột trụ của Hội Thánh, mãi luôn tồn tại và ngày càng luôn được tưởng nhớ đến,,Chúa không chọn người tài giỏi ,thông minh, nhưng Chúa đã chọn các ngài làm nghề chài lưới biển,và hôm nay Chúa Nhật ngày 03/06/2016 ..Biển cam bình như mọi ngày khách du lịch ở phương xa về tham quan, để hưởng không khí của biển trong những tháng mùa hè, đặc biệt sáng nay bãi biển rộn ràng và đông đảo người hơn trong tiếng reo hò cùa những lao động biển, được mang tên Thánh Phêrô và Phaoô, đúng 8g 30 Cha quản Xứ giáo Xứ Tin Mừng đã đến làm phép ghe và thúng chai  phương tiện của anh em ra bờ bắt cá, sau đó là phần đua thúng chai , tuy có những anh em lớn tuổi nhưng với tinh thần truyền giáo,  họ đã vui vẻ reo hò đến đích, và cùng những anh em lương dân ngồi lại trong buổi ăn trưa đạm bạc, vui vẽ và yêu thương, hy vọng một năm mới tới, được nhiều bội thu và sự bình yên , qua lời cầu bầu của hai Thánh bổn mạng,,
  

Thánh Phêrô
"Người giữ Chìa khóa Thiên đàng."

Thánh Phêrô như 1 giáo hoàng, vẽ bởi Rubens









Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

PHÚC ÂM: Mt 16, 13-19


In
Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Tư Mùa Thường Niên Năm chẵn
Phêrô và Phaolô
Lễ Vọng
BÀI ĐỌC I: Cv 3, 1-10
"Tôi có cái này tôi cho anh là: nhân danh Đức Giêsu, anh hãy đứng dậy mà đi".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phêrô và Gioan lên đền thờ. Lúc bấy giờ có một anh què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đến cửa đền thờ, gọi là cửa Đẹp, để xin những người vào đền thờ bố thí cho. Khi thấy Phêrô và Gioan tiến vào đền thờ, anh liền xin bố thí. Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: "Anh hãy nhìn chúng tôi". Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: "Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh là: nhân danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!"
Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa. Họ nhận ra anh chính là kẻ ngồi ăn xin ở cửa Đẹp đền thờ, nên họ bỡ ngỡ và sửng sốt về việc xảy đến cho anh. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 2-3. 4-5
Đáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa; thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác; đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Đáp.
2) Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gl 1, 11-20
"Thiên Chúa đã tách riêng tôi từ lòng mẹ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng: Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận, cũng không học với loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải. Anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá: trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi. Nhưng khi Đấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem, để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Đamas. Đoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Đây trước mặt Thiên Chúa, tôi viết cho anh em những điều này, tôi cam kết rằng tôi không nói dối đâu. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 21, 17d
Alleluia, alleluia! - Thưa Thầy, Thầy thông biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 21, 15-19
"Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý; nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy". Đó là lời Chúa.
++++++++++++++++++++
Lễ Ban Ngày
BÀI ĐỌC I: Cv 12, 1-11
"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Đến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào mà theo ta".
Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Đáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Đáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Đáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18
"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 16, 18
Alleluia, alleluia! - Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 16, 13-19
"Con là Đá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
“Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16,16)
Suy niệm: Có những chân lý người ta “ngộ” ra như trong một tia chớp của một phút xuất thần nhưng lại có tác động sâu xa, định hướng cả một đời người. Đó chính là cảm nghiệm của thánh Phê-rô khi ngài tuyên xưng Thầy mình là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống,” lời tuyên xưng “không phải do phàm nhân mạc khải” mà là do Thiên Chúa. Điều đó lại càng đúng với thánh Phao-lô khi ngài “ngộ” ra Đức Ki-tô qua lời phán trong “luồng ánh sáng” trên đường đi Đa-mát: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (x. Cv 9,1-9). Dù cảm nghiệm đức tin của hai ngài có nhiều khía cạnh khác nhau, cả hai đều cùng một niềm say mê Đức Ki-tô, lẽ sống của đời mình: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mời Bạn: Niềm say mê Đức Ki-tô của các tông đồ cũng là động lực, là sức  mạnh khiến các ngài hăng say rao giảng Tin Mừng và dũng cảm hy sinh mạng sống để làm chứng cho lời mình rao giảng. Chúa đã thương ban cho bạn ơn đức tin, để bạn trở thành chi thể của Hội Thánh, được xây trên máu của các thánh Tông Đồ và Tử Đạo. Với nhận thức đó, bạn hãy mạnh dạn sống niềm tin và lòng trung tín của mình.
Sống Lời Chúa: Nuôi dưỡng đức tin của mình bằng việc siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì gương anh hùng của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Xin cho con hôm nay trung kiên theo bước các ngài sống chứng nhân Tin Mừng trong đời sống ki-tô hữu thường nhật.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG SÁU
Phê-rô và Phao-lô: Chết Cho Đức Tin
Giáo Hội công bố cái chết tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô. Và qua việc tưởng niệm cái chết của các ngài, chúng ta cử hành chính cuộc sống của các ngài. Thật vậy, cái chết không phải là kết cục của cuộc sống. Cái chết tựa như dấu ấn cuối cùng mà Thiên Chúa đóng trên toàn bộ cuộc hiện hữu trần thế của con người.
Do đó, cái chết của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô cũng đồng thời trình bày lịch sử đời sống của các ngài. Cuộc sống của mỗi vị càng có ý nghĩa phi thường do bởi mối quan hệ của các ngài với Đức Kitô, Đấng đã gọi các ngài đi theo Người. Đức Kitô đã gọi Simon, con của Giôna, một ngư phủ ở Galilê, và đặt tên cho ông là Phê-rô – nghĩa là “đá”. Người cũng đã gọi Sao-lô thành Tarsus, vốn là một kẻ bách hại các Kitôhữu, và biến ông thành Phao-lô: vị Tông Đồ của các dân ngoại, “một khí cụ do Ta tuyển chọn” (Cv 9,15).
Đời sống của các ngài thật rất phi thường – nhờ ở quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã giúp các ngài làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đanh và phục sinh: “Người sẽ làm chứng về Thầy; cả anh em nữa, cũng làm chứng về Thầy…” (Ga 15,26-27).
Cái chết thảm khốc mà cả Phê-rô và Phao-lô đã trải qua ở Rôma vào thời Nê-ron chính là tiếng nói cuối cùng của chứng tá ấy. Cái chết của các ngài – cái chết đổ máu vì đức tin – là sự hoàn thành trọn vẹn sứ mạng làm chứng của các ngài. Chính vì cái chết tử đạo ấy mà các ngài vẫn còn sống mãi một cách đặc biệt trong sự tưởng niệm của Giáo Hội. Trước hết, các ngài vẫn tiếp tục sống trong Thiên Chúa, Đấng “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của người sống” (Mt 22,32). Các ngài vẫn sống trong Thiên Chúa cũng như tất cả chúng ta hiện đang sống trong Thiên Chúa.
Lời suy niệm: “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Trong cuộc đời Kitô hữu, với những người yêu mến Lời Chúa một cách chân thật, đều được Thần Khí của Ngài ban cho ơn thông hiểu và sức mạnh để có thể sống với những đòi hỏi của Lời Chúa, chứ không phải do sự khôn ngoan thông thái của mình, nên luôn phải biết khiêm tốn với tất cả mọi người và cũng phải có lòng ao ước cho những người chung quanh chúng ta đều được ơn thông hiểu Lời Chúa để sám hối canh tân đời sống bản thân, đem lại an vui cho xã hội cũng như môi trường.
Lạy Chúa Giêsu: Hôm nay kính nhớ hai Thánh Phêrô và Phaolô, xin Chúa xưống ơn trên những ai mang hai thánh hiệu này. Và xin cho Giáo Hội Chúa có thêm nhiều chủ chăn mới như hai Thánh Phêrô và Phalô, để Nước Chúa lan rộng khắp nơi.
Mạnh Phương
Ngày 29-06: Thánh PHÊRÔ TÔNG ĐỒ
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là "Đá" Simon và Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilea. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: "Đây là Con Thiên Chúa".
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo: - Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô: - Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói: - "Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi".
Chúa Giêsu trả lời: - "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người" .
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an: - "Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ".
Phêrô liền kêu ngay: - "Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày".
Người bảo: - "Hãy đến đây".
Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu: - "Lạy Chúa xin cứu tôi". Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không ? Phêrô trung tín đáp lời: - "Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời" (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: - "Còn các anh, các anh nói tôi là ai ?"
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình: - "Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn: - "Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội.
Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia ; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ: - "Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa: - "Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày" (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình: - "Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày".
Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng: - "Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần" (Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết: - "Chúa đó".
Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông: - Con có mến Thày không ?
Phêrô trả lời: - Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông: - "Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta".
Và Người thêm: - "Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn" (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn: - "Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời: - Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không ?
Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa: - Thày đi đâu dây ?
- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của Origênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.

****************************
Ngày 29-06: Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn.
Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á.
Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình.
Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61 ) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontana.
Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội ?
Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói "giáo thuyết của Phaolô" thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói " Chúa Giêsu là đức Kitô" Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là "hình ảnh" hoàn hảo của Thiên Chúa.
Từ lời gọi "Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA ?" Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: "đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người" (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới "nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do"
Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
(Lẽ Sống)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.
Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế gian và ma quỉ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù.
1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: "Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: "Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng."
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.
- Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể: "Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông."
- Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: "Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi." Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.
- Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: "Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu."" Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.
2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.
(1) Nhìn lại quá khứ: "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin."
+ Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
+ Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.
+ Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2) Kiểm điểm hiện tại: "Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi." Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy."Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên tinh thần các môn đệ: "Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện." Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: "Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. "
3/ Phúc Âm: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Vua Herode đã từng nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được căn tính của Ngài.
(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời." Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.
Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ Simon ... Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian khổ.
Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này được ví như "đá," có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời ... nhưng cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở mang Nước Chúa.
- Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
- Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP