Thứ Tư, ngày 03 tháng 8 năm 2016

LỜI GIỚI THIỆU SÁCH DOCAT - GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI DÀNH CHO NGƯỜI TRẺ

Các bạn trẻ thân mến!
Đức Bênêđíctô XVI, vị tiền nhiệm của cha, đã trao cho chúng con cuốn “Giáo lý cho người trẻ” - YOUCAT. Giờ đây, cha cũng muốn giới thiệu cho chúng con một cuốn sách khác, đó là DOCAT, chứa đựng những Giáo huấn xã hội của Giáo hội.
Động từ tiếng Anh “to do” (hành động) là một phần của nhan đề này. Bởi vì DOCAT giúp chúng ta giải đáp cho câu hỏi: “What should we do?” (Chúng ta phải làm gì đây?); cùng với sách Tin Mừng, DOCAT sẽ như một “cuốn cẩm nang” giúp chúng ta trước hết thay đổi chính mình. Rồi đến thay đổi những người xung quanh chúng ta, và cuối cùng là thay đổi cả thế giới. Với sức mạnh của Tin Mừng, chúng ta có thể thực sự thay đổi thế giới!
Chúa Giêsu đã nói: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Đoạn Tin Mừng trên đã làm đánh động tâm hồn nhiều vị thánh. Thánh Phanxicô Assisi, Mẹ Têrêsa Calcutta nhờ đoạn Tin Mừng mà thay đổi cả cuộc đời của các ngài. Và như Chân phước Charles de Foucauld từng nhận định: “Trong toàn bộ sách Tin Mừng, không có lời nào tác động đến tôi và thay đổi sâu sắc cuộc đời tôi cho bằng lời: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Khi tôi suy ngẫm về những lời từ miệng Chúa Giêsu, lời Hằng Sống của Thiên Chúa. Cũng chính đôi miệng ấy đã phán truyền: “Này là mình Thầy, này là Máu Thầy”. Và rồi, tôi cảm nghiệm được rằng tôi được kêu gọi để theo đuổi và yêu mến Chúa Giêsu qua những người bé mọn.”.
Các bạn trẻ thân mến! Chỉ có việc hoán cải tâm hồn mới có thể khiến cho thế giới, nơi đang đầy dẫy chiến tranh và bạo lực, trở nên nhân đạo hơn. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải nhẫn nại, đối xử công bằng, đối thoại, hòa nhập và liên đới với những người bất hạnh, nghèo túng và cùng cực; cũng có nghĩa là chúng ta phải biết cống hiến vô hạn, phải “yêu cho đến chết vì tha nhân”. Khi mà chúng con hiểu được điều đó một cách sâu sắc, thì như một Kitô hữu tận tâm, chúng con sẽ có thể thay đổi thế giới này. Thế giới ngày nay không thể tiếp tục con đường đang đi. Một Kitô hữu, nếu như thờ ơ trước những người nghèo khó nhất trong những người nghèo khó, thì người ấy không phải là một Kitô hữu đích thực!
Tại sao chúng ta không thể khiến cho cuộc cách mạng của tình yêu và công lý được “bùng nổ” ở nhiều nơi trên hành tinh đầy nỗi đau khổ này? Các giáo huấn xã hội của Giáo hội có thể giúp cho biết bao người! Dưới sự chỉ dẫn đầy kinh nghiệm của các vị Hồng Y Christoph Schönborn và Reinhard Marx, một nhóm đã khởi đầu công việc làm cho thông điệp giải phóng của Giáo huấn về xã hội của Giáo hội lôi cuốn sự chú ý của các bạn trẻ trên toàn thế giới. Họ đã cộng tác cùng các học giả nổi danh và cùng với nhiều bạn trẻ để thực hiện dự án này. Các bạn trẻ nam nữ Công giáo đã gửi những bức ảnh đẹp nhất của họ. Một số khác thảo luận về những đề tài, đặt ra các câu hỏi, ý kiến và soạn thành một văn bản hoàn chỉnh, thích hợp để hiểu được một cách dễ dàng. Giáo huấn xã hội gọi những việc làm này là “sự cộng tác”. Như thế, tự bản thân nhóm soạn thảo đã áp dụng ngay từ ban đầu một nguyên tắc quan trọng của Giáo huấn xã hội. Vì vậy, DOCAT thực sự là một khởi điểm tuyệt vời để giúp chúng ta hành động theo đức tin Kitô giáo.
Những gì được gọi là “Giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo” ngày nay thực ra đã xuất hiện từ thế kỉ XIX. Cùng với sự công nghiệp hóa thế giới, một hình mẫu tư bản khắc nghiệt - một nền kinh tế phá hủy sự sống nhân loại xuất hiện. Các nhà tư bản vô trách nhiệm buộc những người sống ở nông thôn phải rơi vào tình trạng tồi tệ đến mức họ phải lao động cực lực trong các mỏ than hay trong những nhà máy hoen gỉ chỉ để kiếm được đồng lương không đủ sống. Còn trẻ em trong một thời gian dài không được nhìn thấy ánh sáng, các em bị lén lút gửi đến những mỏ than để làm công việc kéo than như một người nô lệ. Các Kitô hữu đã ra sức giúp đỡ nhưng họ thấy rằng như thế thì vẫn chưa đủ. Vì thế, những tư tưởng chống lại bất công xã hội đã dần hình thành ngay trong đời sống chính trị và xã hội. “Rerum Novarum” (Tân Sự) – một thông điệp viết về “Tư bản và Lao động” của Đức Giáo hoàng Lêô XIII, ra đời năm 1891, đã và vẫn là bản tuyên ngôn nền tảng về Giáo huấn xã hội của Giáo hội. Ngài đã viết một cách rõ ràng và xác đáng: “Cướp công mồ hôi của công nhân là tội ác thấu trời.”. Với trách nhiệm to lớn, Giáo hội đã đấu tranh cho quyền lợi của người lao động.
Vì nhu cầu của thời đại, qua nhiều năm, Giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo ngày càng trở nên phong phú và hoàn thiện. Đồng thời, ngày càng có nhiều cuộc thảo luận về đời sống của cộng đồng, về công lý, hòa bình, và lợi ích chung. Người ta đã tìm được những nguyên tắc về nhân vị, về sự liên đới và bổ trợ, mà ngay trong DOCAT cũng có giải thích. Giáo huấn xã hội thực ra không bắt nguồn từ cá nhân vị giáo hoàng hay học giả nào nhưng nó bắt nguồn ngay từ chính trọng tâm của Tin Mừng. Nó bắt nguồn ngay từ chính Chúa Giêsu bởi vì Chúa Giêsu là Giáo huấn xã hội của Thiên Chúa.
“Một nền kinh tế giết chóc!” - Đó là điều mà cha đã viết trong Tông huấn “Evangelii Gaudium” (Niềm vui Tin Mừng), bởi vì ngày nay nền kinh tế loại trừ và bất bình đẳng thu nhập vẫn còn tồn tại. Có những quốc gia có đến bốn mươi hoặc năm mươi phần trăm bạn trẻ gặp phải tình trạng thất nghiệp. Ở nhiều quốc gia, người lớn tuổi bị gạt ra bên lề vì họ bị xem như “mất giá trị” và “không còn khả năng sản xuất”. Biết bao vùng đất trải dài rộng lớn nhưng không một bóng người bởi người nghèo, họ đã tìm đến những khu ổ chuột trong các thành phố lớn với hy vọng tìm được chút gì còn lại để sống qua ngày. Các phương thức sản xuất của một nền kinh tế toàn cầu hóa đã tàn phá những cơ cấu kinh tế khiêm tốn gắn liền với đời sống nông nghiệp ở ngay chính quốc gia của họ. Hiện nay, khoảng 1% dân số thế giới nắm giữ 40% trong toàn bộ khối lượng tài sản của thế giới, và có 10% dân số thế giới sở hữu đến 85% tài sản. Trái lại, chỉ có 1% khối tài sản của thế giới này thuộc về một nửa dân số còn lại. Khoảng 14 triệu người phải sinh hoạt với ít nhất chưa đến 1 euro (xấp xỉ 75 xu) mỗi ngày.
Khi cha mời gọi chúng con hãy sẵn sàng để học hỏi Giáo huấn xã hội của Giáo hội, cha không chỉ mơ ước sẽ có một nhóm nhỏ các bạn trẻ ngồi dưới những tán cây và cùng thảo luận. Điều đó thật tốt! Hãy cố gắng phát huy! Nhưng ước mơ của cha còn lớn hơn thế: cha mong ước cha sẽ có được một triệu bạn trẻ Kitô hữu, và còn hơn nữa, là cả một thế hệ những người đồng trang lứa cùng “đi và nói về Giáo huấn xã hội”. Không gì khác có thể thay đổi thế giới này mà chính những ai biết đồng hành với Chúa Giêsu dấn thân vào thế giới, cùng với Ngài đến với người bị gạt ra bên lề xã hội và đi vào giữa những ai bị coi là “bẩn thỉu” trong xã hội. Hơn nữa, chúng con còn phải biết đi vào đời sống chính trị và đấu tranh vì công lý và phẩm giá con người, đặc biệt cho những người nghèo khổ nhất. Tất cả chúng con là Giáo hội. Hãy chắc chắn rằng Giáo hội sẽ được biến đổi, hãy làm cho Giáo hội luôn sống động, bởi vì chính Giáo hội muốn đặt mình vào cuộc thử thách giữa những tiếng khóc than của người bị tước quyền làm chủ cuộc đời mình, giữa những tiếng van xin của người nghèo túng và bị bỏ rơi.
Bản thân chúng con phải tích cực và chủ động hơn nữa. Bởi khi có nhiều người cùng hành động với nhau, thế giới này sẽ trở nên tốt đẹp hơn và người ta nhận ra chính Thần Khí Chúa đang hoạt động qua chúng con. Và rồi, chúng con có thể trở thành những ngọn đuốc chiếu sáng con đường dẫn những con người này đến với Thiên Chúa.
Giờ đây, cha trao cho chúng con quyển sách nhỏ này, với ước mong được thắp lên ngọn lửa cháy sáng trong lòng chúng con. Cha sẽ cầu nguyện hằng ngày cho chúng con. Hãy cầu nguyện cho cha nữa.

Thân ái,
Phanxicô

6/11/2015

Alleluia có nghĩa là gì

Alleluia là một thành ngữ gốc Do thái, ghép bởi hai từ “hallelu” (hãy ngợi khen, động từ hillel) và “jah” (Giavê, Thiên Chúa). Như vậy, alleluia có nghĩa là “hãy ngợi khen Chúa”. Nên biết là bản dịch Kinh thánh sang tiếng Hy-lạp và tiếng La-tinh đã để nguyên văn Do thái chứ không dịch nghĩa (aineite ton Kyrion; laudate Dominum) cũng tựa như đối với từ ngữ Amen. Cả hai tiếng “Amen” và “Alleluia” đều là công thức phụng vụ. Amen khẳng định niềm xác tín, chấp nhận lời Chúa; Alleluia mang tính cách tôn vinh chúc tụng.

Người Do thái hát Alleluia vào dịp nào?

Thật khó biết được công thức Alleluia được sử dụng từ hồi nào. Điều đáng ghi nhận hơn cả là Alleluia gặp thấy trong một số thánh vịnh, được đặt tên là những “thánh vịnh Hallel” (từ 113-118, theo lối đánh số của bản Do thái). Một nhận xét khác là nói chung alleluia thường được đặt ở đầu các thánh vịnh vừa nói, nhưng có khi ở cuối thánh vịnh (các tv 115; 117), có khi cả ở đầu cả ở cuối (thí dụ 113). Ngoài ra, alleluia cũng gặp thấy kể cả bên ngoài loạt các thánh vịnh Hallel (chẳng hạn các thánh vịnh 105-106; 111-112; 135- 136; và nhất là sáu thánh vịnh cuối cùng, từ 146 đến 150). Có lẽ người Do thái còn hát Alleluia vào các dịp khác nữa chứ không hẳn là lúc đọc thánh vịnh, như ta thấy nói đến ở sách Tôbia (13,18): “Các cửa thành vang tiếng ca hoan hỷ, mọi nhà sẽ cùng hát: ‘alleluia, chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Israel tôn thờ’!”.

Như vậy khi hát Alleluia, các Kitô hữu chỉ lặp lại một tập tục của người Do thái thôi hay sao?

Thiết tưởng cần phân biệt nhiều chặng: trước tiên, trong đời đức Giêsu; kế đến, trong Hội thánh tiên khởi; và chặng thứ ba trong phụng vụ. Trước hết, nếu xét trong cuộc đời của đức Giêsu thì chắc rằng Người đã hát alleluia nhiều lần khi tham dự phụng vụ với đồng bào của mình. Các sử gia đã lưu ý đặc biệt tới trình thuật thiết lập bí tích Thánh thể dựa theo Phúc âm nhất lãm, trong khung cảnh của một bữa tiệc Vượt qua, trong đó Phụng vụ Do thái hát các thánh vịnh Hallel đã nói trên đây (113-118 và 135).

Sang giai đoạn hai (nghĩa là Hội thánh tiên khởi), rất có thể các tín đồ gốc Do thái cũng hát các thánh vịnh Hallel vào lúc cử hành Thánh thể, vì muốn lặp lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Dù sao, trong Tân ước, ta thấy lời chúc tụng Alleluia xuất hiện trong một bối cảnh khác, đó là bài ca khải hoàn trên thiên quốc được ghi lại trong sách Khải huyền chương

19. Lời Alleluia được vang lên 4 lần như điệp khúc (câu 1.3.4.6). Thật khó mà xác định được đây chỉ là một thị kiến của thánh Gioan, hay là phản ánh của một buổi cử hành phụng vụ Kitô giáo. Dù sao thì ngày nay, đoạn văn này trở thành thánh ca giờ kinh chiều Chúa nhật ngoài mùa Chay.

Từ hồi nào alleluia được đưa vào phụng vụ Kitô giáo?

Chúng ta không nên quan niệm phụng vụ Kitô giáo hoàn toàn bắt đầu từ con số không. Như đã nói trên, Chúa Giêsu và các tông đồ đã nhiều lần đọc các thánh vịnh dựa theo truyền thống Do thái, trong đó có nhiều thánh vịnh alleluia. Do đó, ta có thể suy ra là ngay từ đầu các lời chúc tụng alleluia đã đi vào phụng vụ Kitô giáo qua ngỏ các thánh vịnh. Điều này càng rõ hơn khi đọc tác phẩm các giáo phụ viết từ thế kỷ IV. Thánh Athanasiô, Basiliô, Grêgôriô Nyssa bắt đầu viết những khảo luận về ý nghĩa alleluia khi chú giải các thánh vịnh Hallel. Đến khi đời đan tu thịnh hành, người ta thấy nhiều khoản luật ấn định việc sử dụng alleluia trong các thánh vịnh, nghĩa là alleluia được thêm vào hết mọi thánh vịnh cho dù trong nguyên bản Do thái không có. Một thí dụ điển hình là luật thánh Biển đức dành hẳn một chương 15 để ấn định khi nào đọc alleluia: trong mùa Phục sinh, alleluia được thêm vào hết các thánh vịnh và đáp ca; ngoài mùa Phục sinh, thì thêm alleluia vào 6 thánh vịnh chót của giờ Kinh Đêm, và nếu là Chúa nhật thì thêm vào các thánh vịnh giờ kinh Sáng.

Alleluia được gắn liền với các thánh vịnh trong phụng vụ các giờ kinh. Còn trong Thánh lễ thì sao?

Dựa theo sự nghiên cứu của cha Martimort, từ thế kỷ IV, alleluia đã được hát trong thánh lễ ở nghi thức rước sách Phúc âm. Việc công bố Phúc âm tượng trưng Chúa Kitô hiện diện giữa cộng đoàn để giảng dạy. Vì thế mọi người đứng lên chăm chú lắng nghe. Do đó, việc rước sách Phúc âm được kèm theo nhiều nghi thức long trọng, với các giúp lễ cầm đèn, xông hương, đang khi cộng đoàn tung hô alleluia. Ra như phụng vụ muốn diễn tả lại nghi thức nhân dân thành phố Giêrusalem đón rước đức Giêsu vào thành, và nhất là đoàn rước trên thiên quốc được mô tả trong sách Khải huyền. Lời chúc tụng Alleluia được đệm thêm với những câu thánh vịnh hoặc những đoạn Kinh thánh, tạo nên một bài ca. Tập tục này còn được lưu giữ trong phụng vụ ngày nay, bên Tây phương cũng như bên Đông phương. Dần dần, ngoài lời chúc tụng trước khi đọc Phúc âm, alleluia cũng được thêm vào các bài ca nhập lễ, ca hiệp lễ nữa.

Nếu alleluia  lời chúc tụng Chúa, thì tại sao lại không được sử dụng trong mùa Chay? Đâu phải là mùa Chay thì miễn chúc tụng Chúa đâu?

Đúng vậy, ta phải chúc tụng Chúa luôn luôn, mọi nơi mọi lúc. Đó cũng là quan niệm của Phụng vụ bên các Giáo hội Đông phương: họ hát alleluia quanh năm. Nhưng bên Tây phương thì lại khác. Tại sao vậy? Các sử gia đưa ra giả thuyết như sau. Mặc dù trong nguyên ngữ Do thái “alleluia” chỉ có nghĩa là “hãy chúc tụng Chúa”, nhưng khi được chuyển sang văn hóa La-tinh thì nó mang một sắc thái khác, đó là nó biểu lộ sự vui mừng. Tại Rôma cho đến thế kỷ V, alleluia chỉ được hát vào lễ Phục sinh hoặc tối đa là cho đến hết mùa Phục sinh. Tập tục này cũng được áp dụng ở Bắc Phi, như ta thấy ở các bài giảng của thánh Augustinô. Mùa Chay là thời đền tội, và các tín hữu quỳ gối khi cầu nguyện; còn mùa Phục sinh là thời kỳ hoan hỉ, và các tín hữu đứng khi đọc kinh, miệng hát alleluia. Đang khi đó, các nơi khác bên Tây phương không biết đến tập tục đó, và họ hát alleluia quanh năm cũng y như bên Đông phương. Nhưng khoảng cuối thế kỷ VIII, tập tục Rôma thắng thế, alleluia được dành cho mùa Phục sinh, và tuyệt đối cấm hát trong mùa chay. Và phụng vụ Rôma trước đây có nghi thức tiễn biệt và đón rước Alleluia. Trước khi ngưng hát alleluia (kể từ Chúa nhật 70) ca đoàn hát một điệp ca đệm nhiều lời alleluia. Và đêm Vọng Phục sinh, thì phó tế lên giảng đài trịnh trọng xướng ba lần ca khúc alleluia loan báo cho toàn dân tin mừng Alleluia: “Adnuntio vobis, reverendissime Pater, gaudium magnum quod est Alleluia”. Cũng vì Alleluia tượng trưng cho niềm vui, cho nên trước đây, người ta không hát trong lễ an táng hoặc cầu cho người chết.

Trên thực tế, ngày nay phụng vụ chỉ hát alleluia trong mùa phục sinh mà thôi hay sao?

Không phải thế. Trong Thánh lễ, alleluia được xướng lên như bài ca chúc tụng trước khi đọc Phúc âm suốt năm, chỉ trừ mùa Chay. Trong mùa Phục sinh, thì alleluia được thêm vào các đáp ca, điệp xướng, ca nhập lễ vân vân. Đó là nói đến các bản văn phụng vụ chứ không thể kể hết những thánh ca bình dân hoặc các bản trường ca (tựa như Messiah của Handel viết năm 1741). Dù sao đi nữa, khía cạnh vui tươi khi hát alleluia không chỉ tùy thuộc cung điệu của các nhạc sĩ hoặc tài nghệ của ca đoàn, nhưng tùy thuộc rất nhiều vào tâm hồn của ta. Khi tâm hồn ta đang buồn rười rượi, thì có tham dự cả chục đại nhạc hội, ta vẫn buồn như thường, phương chi là hát alleluia! Đây là một nhận xét rất tinh tế của thánh Augustinô trong nhiều bài giảng Phục sinh. Phụng vụ Phục sinh biểu lộ niềm tưng bừng hoan hỉ của biến cố Chúa Phục sinh. Nhưng thử hỏi: trên cõi đời này làm gì có niềm vui trọn vẹn, bởi vì tâm hồn chúng ta luôn bị ám ảnh bởi bao nỗi lo âu buồn phiền. Liệu tiếng hát alleluia có trở thành giả dối không? Thánh nhân trả lời thế này. Nói cho đúng, chỉ có các thiên thần và các thánh nhân trên trời mới có thể hát alleluia cách trọn vẹn, bởi vì các ngài có thể ca ngợi Thiên Chúa suốt ngày đêm và nhất là các ngài không còn bận tâm lo lắng gì nữa. Chúng ta hát alleluia với niềm khao khát sẽ cùng được thông phần hoan hỉ với các ngài (sermo 252,9). Alleluia trở nên bài ca hy vọng tin tưởng, khi biết rằng Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta, và hứa ban cho chúng ta hạnh phúc vĩnh cửu (sermo 254,5). Dù sao đi nữa, chúng ta không phải chỉ hát bằng lời ca nhưng còn bằng cuộc đời. Alleluia có nghĩa là “hãy ngợi khen Chúa”. Chúng ta hãy ngợi khen bằng cuộc sống và miệng lưỡi, bằng con tim và bằng đôi môi, bằng tiếng hát và bằng nếp sống. Chúa muốn chúng ta hát alleluia cho thật hoà điệu chứ đừng hát ngang cung. Vì thế hãy để cho lưỡi hợp điệu với nếp sống, môi miệng hợp với lương tâm. Như đã nói, chỉ có trên trời mới có hợp điệu tuyệt đối, chứ ở dưới trần này, lương tâm ta áy náy đủ chuyện: nào là sai lỗi, nào là chước cám dỗ, và vì thế ta phải cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Dù vậy, thưa anh em, dù giữa bao sự dữ, ta hãy cứ hát alleluia đi, bởi vì Thiên Chúa tốt lành và tha thứ tội lỗi chúng ta, và cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Sự dữ nào? Bệnh tật ư? Tù ngục ư? Không phải thế đâu. Bạn nghĩ cho kỹ đi: sự dữ gì làm bạn sợ nhất? Có phải là cái chết không? Nhưng anh em có biết rằng Chúa đã cứu thân xác anh em khỏi chết hay không? Sự dữ đáng sợ nhất mà ta không còn lo nữa, thì phải sợ cái gì? Các chước cám dỗ ư? Lo gì, Thiên Chúa là Đấng tín trung, Ngài không để cho anh em bị thử thách quá sức của mình đâu; trái lại, Ngài còn ban cho anh em sức mạnh để vượt qua cơn thử thách nữa. Vì thế anh em hãy hát alleluia đi, hát giống như những người lữ hành, vừa đi vừa hát, hát để an ủi nhau giữa lúc lao nhọc, hát để khích lệ nhau nuôi dưỡng niềm hy vọng có ngày sẽ tới nơi an nghỉ. Nhưng vừa hát vừa lên đường, chứ đừng dừng lại, trở lui, hay rẽ ngang (Sermo 256,3).