Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

TÁC VỤ


                                      















Xin cho con biết lắng nghe…
Bookmark and Share
Chúa Nhật XV – TN – A
Xin cho con biết lắng nghe…

Bí ẩn là gì? Thưa, theo từ điển tiếng Việt phổ thông, do viện ngôn ngữ học xuất bản, định nghĩa là: (Bên trong) “có chứa đựng điều gì kín đáo, khó hiểu”. 
Vâng, khi đề cập đến những điều bí ẩn, có thể nói rằng, lịch sử phát triển loài người là một lịch sử luôn đặt ra những câu hỏi, những thắc mắc để tìm ra lời giải đáp cho những bí ẩn tồn tại trong cuộc sống của loài người. Có một số bí ẩn đã được giải mã nhờ khoa học, nhưng cũng có không ít bí ẩn mãi mãi không tìm ra lời giải đáp.
Một trong những bí ẩn mà con người đã không tìm ra lời giải đáp, đó là “Ngôi sao Bethlehem”. Hơn hai ngàn năm trôi qua, ngôi sao này vẫn là điều bí ẩn. Với các nhà khoa học, nhiều câu hỏi về ngôi sao này vẫn cần lời giải đáp. Từ khi ngôi sao Bethlehem xuất hiện, nó đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà thiên văn học cũng như các nhà khảo cổ.  
Nhà thiên văn học người Đức  Johannes Kepler cho rằng, ngôi sao này là sự kết hợp của hai hành tinh để hình thành một ngôi sao mới. Các học giả hiện đại cho rằng đó là một vật thể bay không xác định. Tuy nhiên, các cơ sở khoa học cho tới nay vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Do vậy, ngôi sao Bethlehem vẫn là một bí ẩn. (nguồn: internet).
Thật ra, để biết được một “bí ẩn”, nhất là một “bí ẩn thánh thiên” như ngôi sao Bethlehem, không gì tốt hơn là hãy tìm lời giải đáp trong Kinh Thánh. Tại sao? Thưa, là bởi những bí ẩn thánh thiên này còn là những “mầu nhiệm”, mà đã là mầu nhiệm, thì, ai có thể giải thích rõ hơn Lời Chúa!
Trong những bí ẩn thánh thiên, có một bí ẩn nếu không dựa vào Lời Chúa, sẽ chẳng có ai “thấu hiểu”. Bí ẩn đó chính là “Bí ẩn Nước Trời”. Hay nói đúng hơn, đó là “Mầu Nhiệm Nước Trời”. 
Alex Tresniowski viết: “Đối với một nơi chúng ta mơ ước tới, thật đặc biệt biết bao khi chúng ta biết rõ về Nước Trời. Không có sách nào cho biết vẻ đẹp của Nước Trời, chẳng có video nào trên Youtube hoặc hình ảnh nào đưa lên Facebook. Tất cả chúng ta phải xem cách mô tả của Kinh Thánh về nơi rộng rãi và lung linh đó”. Và Alex Tresniowski đã trích kèm đoạn Khải Huyền, như để làm sáng tỏ cho mọi người biết về bí ẩn Nước Trời, rằng: Thành phố đó sẽ không còn đêm tối nữa, sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Kh 22,5).(*)
Với Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài đã nói rất rõ ràng về mầu nhiệm Nước Trời  bằng những dụ ngôn rất đời thường, đồng thời, Ngài còn nhấn mạnh đến một điều hết sức quan trọng, đó là “ơn hiểu biết”, một ân sủng mà các môn đệ là những người đã “được ban cho”(x.Mc 4,11).
Dụ ngôn Đức Giê-su đã kể được chép trong Tin Mừng thánh Mat-thêu (x.Mt 13,1-23).    

**
Vâng, chuyện được kể lại rằng : “Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ”. Một rừng người vây quanh Ngài. Và cũng như những lần trước, “Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều”.
Đức Giê-su đã nói điều gì? Thưa, Ngài đã nói về một “Người gieo giống đi ra gieo giống”.
Thưa bạn, bạn có phải là một nông dân không? Nếu phải, chắc hẳn bạn sẽ ngạc nhiên về “người gieo giống” đã được Đức Giê-su mô tả trong dụ ngôn này.
Theo lời mô tả của Đức Giê-su, anh nông dân này quá ư là phí phạm hạt giống của mình. Thì đây, chuyện kể tiếp rằng: “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường… Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều… Có những hạt rơi vào bụi gai… Có những hạt lại rơi nhằm vào đất tốt…” (x.Mt  13, 4-8).
Giải thích cho chuyện này, Lm Charles E.Miller nói: “Một nông dân thận trọng luôn cân nhắc cặn kẽ để chỉ gieo ở những nơi bảo đảm sẽ mang lại kết quả tốt. Song người gieo giống trong bài Tin Mừng đã không tiếc các hạt giống của mình vì ông tượng trưng cho Thiên Chúa là Đấng luôn quảng đại với các ân sủng của Người”.  
Thiên Chúa là Đấng quảng đại ư! Thưa, đúng vậy. Thế nhưng, trước hết chúng ta hãy nhìn xem chuyện gì đã xảy ra cho những hạt giống được gieo.
Vâng, theo câu chuyện được kể, có bốn loại đất đã tiếp nhận những hạt giống. Loại đất vệ đường: “chim chóc đến ăn hết. Loại đất toàn sỏi đá: “nó mọc ngay, vì đất không sâu, nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô”. Loại đất đầy gai góc: “gai mọc lên làm nó chết ngạt”. Và loại đất cuối cùng, đất tốt: “nên sinh hoa kết quả” (x.Mt 13,4-8).
Và đây, lòng quảng đại của Thiên Chúa đã được bày tỏ qua việc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc… Tưới từng luống, sang từng mô đất, khiến dầm mưa, cho hạt nảy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (x. Tv 65,10-12).
Hôm đó, Đức Giêsu chấm hết dụ ngôn bằng một lời khuyến cáo mạnh mẽ, rằng: “Ai có tai thì nghe” (Mt 13,8).

***
“Ai có tai thì nghe”. Phải chăng đây cũng là lời khuyến cáo dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta? Thưa, đúng vậy. Thế nên, hãy tự hỏi lòng mình rằng: tôi đã nghe dụ ngôn này được bao nhiêu lần? Mới lần đầu? Mười lần? Hai mươi lần? Hay năm mươi lần? 
Thật ra, dù chúng ta đã nghe bao nhiêu lần đi chăng nữa, nhưng sẽ chẳng ích lợi gì, nếu chúng ta “nghe mà không hiểu”.
Thật vậy, hôm đó, Đức Giê-su không chỉ khuyến cáo: “Ai có tai thì nghe”, nhưng Ngài còn đưa ra một yêu cầu, đó là hãy “nghe Lời và hiểu”. 
Nghe Lời mà không hiểu sẽ là một thảm họa. Thảm họa đó chính là “quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo vào lòng người ấy”. Thảm họa đó còn là “khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay”. Chưa hết, khi bị “nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt”… Vâng, Đức Giê-su nói “Lời không sinh hoa kết quả gì hết”.
Điều này đã được minh chứng khi biến cố 30/04/1975 xảy ra. Dạo đó, không ít người Công Giáo “vấp ngã”, vì sợ bị ngược đãi, vì sợ không được trọng dụng, vì bị cám dỗ bởi bả vinh hoa phú quý , họ đã không ngần ngại điền vào phần khai tôn giáo của bản sơ yếu lý lịch, của tờ chứng minh nhân dân, một chữ “KHÔNG” to tướng…
Nhìn lại, sau 39 năm, những hạng người đó bây giờ được gì, mất gì? Thưa, tôi không biết. Nhưng, có phần chắc, họ “có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy”. 
Còn những người “nghe Lời và hiểu” thì sao? Thưa, nghe Lời và hiểu, Đức Giê-su gọi đó là điều thật có phúc, “còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.
Vâng, đúng là thật có phúc, hồng phúc đó được chính Đức Giê-su chúc phúc, rằng: “kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục”.
Đừng bao giờ nghĩ rằng Lời Chúa khó hiểu. Khó hiểu, rất có thể chúng ta làm bộ không hiểu. Chúng ta làm bộ không hiểu, không phải vì chúng ta không hiểu, nhưng rất có thể chúng ta cố tình không muốn hiểu.
Thì đây, Đức Giê-su nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.  Vâng, chẳng lẽ chúng ta không hiểu thế nào là hiền lành, thế nào là khiêm nhường?
Cuối cùng, một điều quan trọng không kém, đó là, đôi khi chúng ta nghe Lời Chúa, nhưng “không sinh ích gì cho chúng ta” bởi vì tuy đã nghe, nhưng chúng ta, như lời tông đồ Phêrô đã nói: “không lấy đức tin đáp lại lời giảng” (Dt 4,…2).

**** 
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại câu chuyện dụ ngôn người gieo giống. Vâng, câu chuyện đã được Đức Giêsu giải thích quá rõ ràng. Đừng nói là khó hiểu, nhưng hãy tự hỏi lòng mình rằng, mảnh-đất-tâm-hồn-của-tôi thuộc loại nào trong bốn loại đất đã được Đức Giêsu nêu trong dụ ngôn? 
Mảnh đất bên vệ đường ư! Hay là mảnh đất chỉ toàn sỏi đá! Có phải là mảnh đất đầy gai góc! Hay mảnh đất tốt chính là mảnh đất tâm hồn của tôi? 
Tất nhiên là không ai trong chúng ta lại mong muốn mảnh đất tâm hồn của mình thuộc ba mảnh đất “xấu” nêu bên trên. Thế nhưng, chắc hẳn chúng ta sẽ băn khoăn và tự hỏi rằng: làm thế nào để mảnh đất tâm hồn mình thuộc loại “mảnh đất tốt”! 
Thưa, chúng ta cần có một cử động của tâm hồn, đó là “hãy lắng nghe”, tất nhiên là “lắng nghe Lời và hiểu” chứ không phải là lắng nghe những lời ba láp ba xàm của “bác này… bác nọ”, nói tắt một lời là của Xa-tan, ma quỷ và bè lũ của chúng. 
Sa-mu-en là một mẫu mực điển hình về việc “lắng nghe Lời Chúa”, một mẫu mực để chúng ta noi theo. Vâng, chuyện kể lại rằng: “Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa. Nơi có đặt hòm bia Thiên Chúa”. Chúa gọi Sa-mu-en, thế mà ông ta lại tưởng thầy của mình là Êli gọi. Ba lần Chúa gọi nhưng Sa-mu-en vẫn không nhận ra. Chỉ đến khi thầy Êli “hiểu là Đức Chúa gọi” và dạy cho Sa-mu-en cách trả lời. Sa-mu-en mới “hiểu” và mới có thể nhận ra lời Chúa phán dạy cho mình. 
Sau khi được thầy Ê-li dạy, chuyện kể tiếp rằng: “Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến. đứng đó và gọi như những lần trước: ‘Sa-mu-en! Sa-mu-en!’. Sa-mu-en thưa: Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”( x. 1Sa 3,1-10). 
Với chúng ta hôm nay, thật dễ dàng để mà “lắng nghe Lời Chúa”. Thì đây, Kinh Thánh chính là “Lời Chúa”, là “Lời” để chúng ta lắng nghe, để chúng ta học hỏi. 
Một sai lầm nghiêm trọng mà không ít người trong chúng ta mắc phải, đó là, chúng ta cho rằng chỉ cần lắng nghe “Lời Chúa” trong những thánh lễ ngày Chúa Nhật là đủ. 
Hãy nhìn cộng đoàn dân Chúa ở Beroia năm xưa, họ cũng chính là mẫu mực cho chúng ta về việc “lắng nghe Lời Chúa”. 
Tác giả Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại việc đó như sau: “Những người Do Thái ở đây cởi mở hơn những người ở Thesalonica: họ đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không” (Cv 17,11). 
“Ngày ngày tra cứu Sách Thánh”. Vâng, làm việc này không phải để cho vợ ta, không phải để cho chồng ta, không phải để cho một người nào đó chung quanh ta, nhưng là cho chính ta. 
Năm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta “Tân Phúc Âm hóa” trong gia đình. Chính vì thế, hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi mình rằng,  tôi có  lắng nghe Lời Chúa “đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày ngày tra cứu Sách Thánh”? 
Nói tới tân Phúc Âm hóa, đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô có lời khuyên, rằng: “Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa… 
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng…”  (Đức Giáo Hoàng Phanxicô - Niềm Vui Phúc Âm)  
Thưa bạn… bạn đã bắt đầu cho việc “lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa” chưa? Nếu chưa, ngay bây giờ, sau khi bạn đọc bài suy tư này, bạn và tôi, chúng ta hãy cùng nhau cất tiếng nguyện ca… Ca rằng:
“Xin cho con biết lắng nghe lời ngài gọi con trong đêm tối.
Xin cho con biết lắng nghe lời ngài dạy con lúc lẻ loi,
Xin cho con cất tiếng lên, trả lời vừa khi con nghe Chúa
Xin cho con biết thân thương,
Lạy ngài, Ngài muốn con làm chi?” 
Vâng, Lạy Chúa, “Xin cho con biết lắng nghe…”

Petrus.tran 
 ******
(*) TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com) Sang qua ngày 23/10/2015

Tôi muốn!
Bookmark and Share

CHÚA NHẬT XXII – TN – A
Tôi muốn!

Cách nay khoảng một năm, chính xác là vào ngày Chúa Nhật 28/07/2013,  đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 28 tại Brazil bế mạc. Trước lễ bế mạc hai ngày, đêm thứ sáu ngày 26/07, tại bãi biển Copacabana, có rất đông các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về đây để tham dự nghi thức đi “Đàng Thánh Giá” cùng với Đức đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô.
Bờ biển Rio, nơi thường tổ chức nhiều lễ hội, hôm ấy trở thành khung cảnh của suy niệm và nguyện cầu. Mười ba chặng Đàng Thánh Giá trải dài suốt trên gần một cây số của đại lộ Atlantico, với một đội ngũ 280 người, gồm các nghệ sĩ và các thỉnh nguyện viên cùng nhau “diễn nguyện” trong tình liên đới. Trong cùng lúc, các bạn trẻ khác, không phân biệt quốc tịch, màu da, đã thay nhau vác thập giá.
Đến chặng thứ mười bốn, chặng cuối cùng, được đặt tại lễ đài trung tâm. Nơi đây, một bài huấn từ dành cho giới trẻ,  đã được vị cha chung của Giáo Hội, ngài Phan-xi-cô, công bố.
Mở đầu bài giáo huấn, Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói, “Hôm nay chúng ta ở đây để đồng hành với Chúa Giêsu đoạn đường dài đau khổ và yêu thương của Người, đàng thánh giá, là một trong những khoảnh khắc mạnh mẽ nhất của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới”.  Và đặc biệt, ngài có nhắc đến một người môn đệ của Đức Giê-su, đó là tông đồ Phê-rô.
Vâng, tại sao không bế mạc đại hội bằng những “vũ hội”,đại loại như vũ hội Carnival với những vũ điệu Samba rực lửa… 3D, dễ thu hút hàng triệu người, như thói đời thường làm? Tại sao không nhắc đến những gương mặt nổi tiếng trong ánh mắt giới trẻ Brazil như: Pele, Zico, Socrates, Romario, Ro-béo, Ro-gầy v.v... mà lại nhắc đến ông Phê-rô, một tay chài lưới chẳng có tiếng tăm gì trên thế giới? Về điều này, tôi không biết.
Vâng, đi “đáng Thánh giá” và nhắc đến tông đồ Phê-rô,xin thưa, trước hết, là bởi, ngài chính là tấm gương mẫu mực của người môn đệ theo Đức Giê-su. Một người đã dám “từ bỏ mình”, một người, như lời Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói trong bài huấn từ, rằng: “...đã bước theo Thầy của mình, với lòng cản đảm, cho đến cùng”.
Và sau là, đi “đàng Thánh giá” chính là nhắc lại huấn lệnh khi xưa Đức Giê-su đã công bố, rằng: “Ai  muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (x. Mt 16,24).

**
“Ai muốn theo Thầy...” Vâng, Đức Giê-su, sau một thời gian dài ra đi loan báo Tin Mừng, tiếng đồn về một ông Giê-su được đồn vang khắp xứ sở Palestina.
Người ta đồn rằng, Ngài: “... Giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền… Giáo lý thì mới mẻ; người dạy lại có uy quyền”, một thứ quyền uy khiến cho cả đến thần ô uế cũng phải thét lên rằng: “chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi” (Mc 1,24). Còn có lời đồn rằng, Đức Giê-su là “ông Ê-lia... hoặc là Gioan tẩy giả” v.v...
Nghe những lời đồn đó, có một số người tìm đến và muốn đi theo Ngài. Tuy nhiên, những người tìm đến và muốn đi theo Đức Giê-su, họ đều “vỡ mộng”. Vỡ mộng vì họ mang một dự phóng, thậm chí, một tham vọng khác hẳn ý tưởng dấn thân của Đức Giê-su.
Trường hợp  một người thanh niên giàu có, muốn theo Đức Giê-su là một ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng, có một lần, có một chàng thanh niên đến và ngỏ lời muốn theo Ngài, nhưng khi vừa nghe Đức Giêsu đưa ra điều kiện “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”… Thiệt tình! Khi anh ta nghe lời yêu cầu đó, buồn thay! “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi…” (x. Mc 10,22).
Ai muốn theo Thầy ư?! Vâng, với Đức Giê-su, để theo Ngài, đừng có mơ mộng như hai anh em nhà Dê-bê-đê, muốn “một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”...
Sứ mạng của Đức Giê-su, khi xuống trần gian cứu nhân độ thế, đã được Ngài loan báo, rằng: “(Người) phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết”... (x.Mt 16, 21).
Một đêm nọ, tại Giêrusalem, Đức Giêsu cũng đã nói rõ phương cách “cứu nhân độ thế” của Ngài cho ông Nicôđêmô, rằng “như ông Môse đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,14-15).
“Con Người cũng sẽ phải được giương cao”. Giương cao như thế nào? Thưa, chính là giương cao trên thập giá.
Hôm đó, để làm sáng tỏ “ý tưởng của Thiên Chúa” và cũng là ý tưởng của Ngài, Đức Giê-su đã có huấn lệnh cho các môn đệ rằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

***
Trở lại bài giáo huấn của đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô. Vâng, khi nói về tông đồ Phê-rô, ngài đã kể lại câu chuyện truyền thống cổ xưa của Giáo Hội Roma.
Chuyện kể rằng: “Tông đồ Phê-rô, khi ra khỏi thành để trốn cuộc bách hại của hoàng đế Neron, thánh nhân đã gặp Chúa Giê-su đi ngược lại, ngài rất lấy làm kinh ngạc và đã hỏi Chúa: ‘Lạy Thầy, Thầy đi đâu vậy?’  Chúa Giê-su trả lời: ‘Thầy đến Roma để chịu đóng đinh lần nữa’. Hiểu được ‘tư tưởng của Thầy’, chuyện kể tiếp rằng:  thánh Phê-rô trở lại thành Roma. Ngài tử đạo tại đó. Cái chết của ngài, cũng là một cái chết trên thập giá như Thầy Giê-su”.
Tông đồ Phê-rô, quả đúng là đã “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” Đức Giê-su.

****
Với chúng ta hôm nay, thế nào là “từ bỏ chính mình?”. Phải chăng,  là cũng phải “chết”, như Phê-rô đã chết, trên cây thập giá năm xưa?
Xin thưa, không phải vậy. “Từ bỏ chính mình” không có nghĩa là “biến mất khỏi thế gian này”. Từ bỏ chính mình, đó chính là “từ bỏ cái tôi của tôi – từ bỏ cái tôi trong tôi”.    
Làm thế nào để có thể  “từ bỏ cái tôi của tôi – từ bỏ cái tôi trong tôi”?
Vâng, tông đồ Phao-lô, với kinh nghiệm bản thân, ngài đã đưa ra một lời khuyên, một lời khuyên chân tình, rằng: “Đừng có rập theo đời này…”.
Đúng vậy, đừng có rập theo thói hư tật xấu của người đời, như: thói “ham tiền bạc, khoác lác kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trác, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa...v.v...” (x.2Tim 3, 2-4).
Thánh nhân có thêm lời khuyên rằng: “…nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo”( x.Rm 12,2).
“…Ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” không ở đâu xa, mà ở ngay trong những trang Kinh Thánh (Lời Chúa). 
Một bức họa chân dung, nó chỉ có thể trở nên sinh động khi đã được người họa sĩ “điểm nhãn”.  Với chân dung của một Ki-tô hữu, cũng vậy, anh (chị) ta cũng phải được “điểm nhãn”, điểm nhãn bằng chính “Lời Chúa”. 
“Lời Chúa”, như lời tông đồ Phê-rô nói, là một thứ “sữa tinh tuyền… nhờ đó anh em sẽ lớn lên”, lớn lên trong đức tin. Sự lớn lên trong đức tin chính là một sự “lột xác”, lột xác khỏi “cái tôi của tôi – cái tôi trong tôi” để sống một cuộc sống, một cuộc sống mới, rằng “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,  mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

****
Đức Giê-su nói “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Là một Ki-tô hữu, người môn đệ của Ngài, chúng ta  có “muốn?”
Phải chăng, chúng ta không chỉ trả lời là “Tôi muốn”, nhưng còn “khoe” những cây thập giá mà mình đang  vác “trên cổ… trên vành tai… trên mái tóc highlight”… Nó được làm bằng vàng bốn số 9999, nó được làm bằng bạc, được trạm trổ tinh vi, được mua từ Roma, nó bằng gỗ nhưng là gỗ cẩm lai và được cẩn thêm những viên ngọc lấp lánh v.v.. và v.v…!?
Với những loại “thập giá” đó, Lm. Nguyễn Tầm Thường, nhận định rằng, nó chỉ “là đồ trang sức, là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc, là phương tiện tranh đấu, có thể là duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam, hoặc có thể để phân biệt chức vị trong xã hội”.
Sau lời nhận định nêu trên, Lm Nguyễn Tầm Thường chia sẻ, rằng, “Vác Thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo Ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh giá là gì rồi. ‘Về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta’…”(Gl. 6,14) (Trích trong NƯỚC MẮT & HẠNH PHÚC).
Vâng, “trừ phi tôi muốn…”  Trừ phi tôi muốn “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì…” ngoài việc “tôi muốn mọi người biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu… Tôi muốn cười vào những khoe khoang. Tôi muốn khóc thương đời điêu tàn” (Tôi muốn*).
Và “ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì”, ngoài việc “cố gắng yêu thương người. Dù người không yêu ta, (vẫn) cứ yêu thương hoài. Mặc người ai quen ai, hãy cho nhau một lời”. 
Và ước-chi-tôi-chẳng-hãnh-diện-về-điều-gì, ngoài việc “cố gắng yêu thương đời. Dù đời không yêu ta, hãy cứ yêu thương hoài. Mặc đời ta không ai, hãy vững tin yêu đời”. (Yêu người-Yêu đời**)
Biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu, hoặc, cố gắng yêu thương người dù người không yêu ta… đó là gì, nếu không phải là giới răn “yêu người” mà Đức Giê-su đã truyền dạy!
Biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu, hoặc, cố gắng yêu thương người dù người không yêu ta… đó là gì, nếu không phải là “thập giá hằng ngày” mà chúng ta luôn đối diện?
Nói về thập giá, khi gặp điều bất hạnh, người ta thường than thở: “Cuộc đời tôi khổ quá! Sao Chúa lại bắt tôi vác thánh giá nặng thế này!” Vâng, quả là một sự “đổ lỗi” trơ trẽn.
Kinh Thánh chép rằng, Đức Giê-su bị bắt, bị làm nhục, bị nhạo bang, bị đánh đập, và sau cùng, người ta làm một cái thập giá, bắt Ngài vác đi , tới Golgotha, người ta đóng đinh Ngài trên cây thập giá đó (x.Mc 15, 16).
Về điều này, Lm Nguyễn Tầm Thường chia sẻ tiếp, rằng: “Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa: Nếu thập giá là sản phẩm của con người, thì phải nói, con người đã gởi thập giá cho Chúa , chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?” 
Chúa Giê-su đã phán: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” kia mà!
“Biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu, hoặc, cố gắng yêu thương người dù người không yêu ta,,hãy cứ yêu thương hoài”; có khác gì lời Đức Giê-su mời gọi “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”?!
Và, nếu đây có là “thập giá” thì nó đã trở thành Thánh giá – Thánh giá Chúa Ki-tô. Với thánh giá này, Ngài cũng chỉ mời gọi và luôn mời gọi “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Hãy để tâm hồn một phút trong thinh lặng và hãy tự hỏi lòng mình rằng, tôi sẽ thưa với Ngài, rằng: “Tôi muốn”!

Petrus.tran 
------------------
(*) (**) Tác giả Lê Hựu Hà.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét